Trang Thơ Tranh Đấu

Trang Thơ Tranh Đấu


Một ngày lạnh Nước nguời không tri kỷ Ta vỗ án thét thành ca chính khí Ðông thê thê như gió thổi u hồn Thấu buốt tận lòng người trong cốt tủy Lòng sống chết buồn vui bừng nổi dậy Thoắt lăm le như giục người chọn lấy Năm nghìn năm, làn máu bén dạt dào Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy Tiếng vang vang như thần kêu quỷ hét Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét Gọi quá khứ vị lai những u hồn Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết.
Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc Sông Bạch Ðằng sóng vỗ thuyền cắc cắc Non Chi Lăng gió cuốn rừng đao cung Gò Ðống Ða xương người phơi man mác Thuở Sát Thát chàm vai thề đầu mất Ngày Bình Ngô nổi cờ không khuất tất Khi Cần Vương nhổ mặt lũ gian hùng Lúc Cứu Quốc lòng bôn ba uất uất Thà làm ma nước Nam hơn vua Bắc! Ðầu chẳng còn, quyết không đương cắt tóc! Lửa đốt mình cho trọn nợ non sông! Dây thắt cổ cho tròn trung xã tắc!
Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết Những anh hồn xưa, nay, mai oanh liệt Mở nguồn sống xưa, nay, mai Nước nòi, Muôn nghìn đời dạt dào Chính Khí Việt! 
Chính khí Việt khắp đất trời bàng bạc Chính khí Việt trong máu người Hồng Lạc! Gió thê thê quất dậy hồn phục hưng Gươm Vạn Thắng cứu nước nòi giết giặc! Chính khí Việt là hồn gươm Vạn Thắng Thép tôi với máu đào hun lửa nóng, Và Ðại Việt muôn năm cả toàn dân
Vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng!
Lý Đông A  
Liễu Châu 1942
Đảng Trưởng Đại Việt Duy Dân
Trang Thơ Audio Chọn Lọc

-------oo0oo-------
Lịch sử máu của VGCS
Nhớ ngày mồng hai tháng baLiemf búa lễ đài mấu đỏ mưa sa Nhớ ngày mùng 8 tháng 3
Đàn ông đi lính, đàn bà đi phu
Nhớ ngày 26 tháng 4
Thanh niên chết trận hoặc tù quanh năm
Nhớ ngày mùng 1 tháng 5
Công nhân đào đất xây lăng “bác Hồ”
Hai mươi tháng 7 lập lờ
Thương binh, tử sĩ được tờ “vẻ vang”
Bước sang tháng 8 rõ ràng
Phất cờ khởi nghĩa, xóm làng mừng vui
Nào ngờ vận nước còn xui
Mùng 2 tháng 9 ngậm ngùi Việt Nam
Aí quốc lại hóa Việt gian
Chiến tranh huynh đệ tương tàn từ đây
Con côi, vợ góa, mẹ gầy
Rừng xanh tàn úa, máu đầy biển Đông...”
***
Ngày lăng Hồ Chí Minh được khánh thành cũng có thơ ghế đá truyền khắp Hà-nội:
"...Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng
Xác chết da xương, tim óc không
Nằm quan tài kính cho người ngắm
Xác nhắm mắt nghiền chẳng dám trông
Sở thú kề gần dăm, bảy bước
Thú NGƯỜI, người THÚ, nực cười không !" 
 ***
Tội ác Hồ cáo

"Đứng trên Cổng Trời nhìn về Quản Bạ
Tưởng mình cưỡi gió ngắm trần gian"
Đẹp thay đất nước bạc vàng
Đứng đây sao thấy vô vàn thân thương
Sa-mu san sát bên đường
Cảnh sao hùng vĩ, ngựa giương bờm dài
Đải lầu, vòng bạc, hoa cài
Bản Mèo đứng đó nhìn ai mà buồn
Phải chăng bản nhớ người thương?
Hà Giang, Mèo Vạc máu xương đỏ ngầu
Hồ cộng cùng với Mao Tàu
Giết hơn một vạn kể đâu giống nòi
Mẹ hiền Tổ-quốc đâu rồi?
Dù là thiểu số cũng người Việt Nam
Cũng máu đỏ, cũng da vàng
Búa liềm Hồ cáo bản làng tang thương
Sông Nho Quế máu còn vương
Người Kinh, người Thượng khắc xương ghi lòng
Đoàn kết chống cộng đến cùng
Tội ác Hồ cáo, Lạc Hồng chớ quên!
***
Vịnh cái hồ cạn  
                                                                                 Tác giả: Vô danh - 1945
Nước có vì đâu há bởi Hồ
Khi Hồ chưa có nước nơi mô
Sông dài biển rộng thuyền lên xuống
Vực thẳm đồi cao sóng nhấp nhô
Nước bởi vì Hồ mà ứ lại
Hồ không có nước phải phơi khô
Đến khi nước hết thì ta thấy
Đủ mặt trê tràu với diếc rô!
* Bài thơ cưc kỳ sâu sắc đã tiên đoán được rõ vai trò của tên việt gian Hồ Chí Minh với vận mệnh dân tộc từ năm 1945. Giờ đây, thật đau lòng, lũ trê trầu đã lộ mặt! Tương lai dân tộc thật vô cùng bi đát khi bọn Việt gian CS đã bán đứng dân tộc và tổ quốc cho Tầu Cộng. Chúng đã chấp nhận chuyển giao Việt Nam thành 1 khu tự trị của Tầu Cộng trong hòa bình và ổn định!                       
***
Đồng Sỹ Nguyên

"Đồng Sỹ Nguyên, Đồng Sỹ Nguyên!
Theo Hồ ngươi giết con chiên Ba Làng.
Tội ác ngươi nhất thế gian
Trẻ thơ cũng bắn, già làng cũng đâm
Cỏ cây cũng phải khóc thầm
Núi sông cũng phải một lần phong ba
Đảng ngươi, đảng lũ Tàu, Nga
Cộng ngươi, cộng máu, cộng hòa thịt xương
Cách ngươi, một lũ bất lương
Cùng quân ăn cướp, cùng phường lưu manh
Đảng ngươi tội ác rành rành
Chứng nhân còn đó, sử xanh, Đất, Trời
Lũ ngươi đền tội đời đời!"
***
Nữ thanh niên xung phong

“Em là thanh niên xung phong
Đắp đường, tải đạn, long đong tháng ngày
Đảng nuôi hai bữa một ngày
Cơm độn ba bát, muối đầy lòng tay
Aó quần hai bộ đổi thay
Một năm đi phép mười ngày... “có lương”
Cho nên chẳng có người thương
Xuân tình chợt gặp giữa đường với nhau
Nói ra bảo kể khổ đau
Thời gian thấm thoát bước mau về già
Sốt rừng da mái, mắt lòa
Đảng cho giải ngũ về nhà ăn rơm !
Tuổi xuân chôn chốn Trường sơn
Nhiều cô thai nạo vứt chân cây rừng
Về làng chân bước ngập ngừng
Tương lai mờ mịt, gối trùng, lưng cong
Biết khôn đã chót vào tròng !!!”
***
“Chồng bị bắt lính phương xa
Mẹ cha cải tạo chết già rừng sâu
Ngày cày thay kiếp ngựa trâu
Đêm làm cái nệm để hầu quan viên : 
- Đảng uỷ, chủ tịch ưu tiên
Trưởng công an xã tiếp liền theo sau
Ơn đảng, nghĩa bác dày sâu
Nhân dân thành đĩ, thành trâu hết đời
Thấu tình chăng, hỡi Đất, Trời ?”
 ***
Đạo đức Võ Nguyên Giáp

Phạm Huy Thông, Phạm Huy Thông
Giáo sư nổi tiếng tô hồng, bẻ hoa
Một tay bóp méo sử nhà
Một tay nắn bóp lệnh bà tướng công
Tướng bà dám cắm sừng chồng
Bởi chưng biết thóp tướng ông nhập nhèm
Chồng ăn chả, vợ ăn nem
Thôi thì cùng cảnh lèm nhèm như nhau
Tướng ông trong bụng rất đau
Nhưng Thông lại có đỡ đầu quan trên
Mưu sâu là chước lặng yên
Đội mũ đạo đức, đeo kiềng nhân luân
Nghĩ rằng việc ở trong quần
Nào ngờ dân đã xa gần đều hay
Khen tài Thông : đúng là Tây !
***
"Việt nam có một ông già
Râu dài, tóc bạc tên là Chí Minh
Ông hay uống rượu một mình
Hễ buồn lại rủ Trường Chinh uống cùng
Say sưa ông nói lung tung
Việt nam mình sẽ sánh cùng năm châu
Này ông, chuyện ấy còn lâu !"
***
Ngày tượng Lénine được dựng xong, ai đó đã khoác chiếc áo "đại cán" rách và cái nón cối rách lên tượng, cùng lúc bài thơ ghế đá ra đời :
"Lê-nin quê ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này
Ông vênh mặt, ông chỉ tay :
Tự do, hạnh phúc lũ mày còn xa
Kìa xem gương của nước Nga
Bảy mươi năm lẻ có ra thế nào !"
Nói về thành tích "Bác, Đảng" đem lại cho nhân dân :
"Tự do chết đói cả nhà
Hạnh phúc vợ góa, mẹ lòa, con côi
Độc lập kiểu ấy... thì thôi !!!"
  ***
Tôi muốn nói!
Tống phước Hiến
Tôi muốn nói: Ðảng Cộng-Sản Việt-Nam,
Là đảng cướp, đã lừng danh tham ác.
Ðang là kẻ gieo điêu linh tan tác,
Vẫn say mèm với bữa tiệc đầu lâu
-o0o-
Hỡi những kẻ trong biển máu ngập sâu,
Từng hí hửng súng gươm theo đảng tặc.
Cũng đã từng lưu manh núp bóng giặc,
Từng hung hăng bằng trọn ván cờ gian.
-o0o-
Tôi muốn nói, từ đáy vực lầm than,
Triệu vong linh, triệu nỗi niềm oan khuất.
Gọi anh ơi : Ðừng giở trò ma thuật,
Ðừng gây thêm thống hận với non sông.
-o0o-
Tôi muốn nói : Vì nòi giống chung cùng,
Vì mệnh nước, vì tồn vong Ðất Tổ.
Máu Cha Ông trên luống cày lao khổ,
Hãy quay về bằng chút sót lương tâm.
-o0o-
Ðừng khâm liệm thuở hèn nhát âm thầm,
Ðã đồng lõa bọn gian nhân hiệp đảng.
Hãy thức dậy chút lương tri lảng vảng,
Ðể an lòng trước giây phút lâm chung.
-o0o-
Vứt đi anh, những lý luận vi trùng,
Hãy rút bỏ những lưỡi dao ti tiện.
Và liệng đi những dối gian ngụy biện,
Cho hồn về trong trắng thuở thơ ngây
-o0o-
Ðừng “Hoa xuyên tuyết”, “Ðêm giữa ban ngày”,
Ai “Quốc-Hội”, anh gọi ai là “Mẹ”?
Hãy hổ thẹn “Chia tay ý thức hệ”,
Ðừng lập lờ, đừng đánh lận quanh co. 
-o0o-
Rồi mai đây khi áo ấm cơm no,
Hãy sung sướng, cùng toàn dân hợp lực.
Cùng rộn ràng Quê hương vàng nắng rực,
Anh mỉm cười đã dứt khoát tà đen.
-o0o-
Tôi muốn nói: Thuở sa đọa, yếu hèn,
Ðịa vị, quyền uy – làm anh nín lặng.
Nên có lần lương tâm anh trĩu nặng,
Nay cuối đời, hãy thức dậy đi anh
Những Bài Thơ Vô Ðề Của Tác giả Vô Danh
Thơ tuyển chọn 
Quê-hương đang bị Cộng-sản Việt-Nam (CSVN) đày đọa! Núi sông điêu tàn hiu hắt, đồng bào rên xiết hờn căm. Nỗi phẫn hận ấy đang bị cợt đùa lăng nhục bởi CSVN ngang nhiên, trâng tráo ép đặt rằng: “Xã-hội chủ-nghĩa ưu việt, mà Bác Hồ trên đường cứu nước tìm được và nhân dân tin tưởng, cương quyết đi theo con đường Bác đã chọn”. Một người bình thường, cũng thấy tập đoàn Hồ-Chí-Minh (HCM) lưu manh bán Nước, giết hại các nhà ái quốc, tiêu diệt các đảng phái, các giáo phái và bất cứ ai không chấp nhận thân phận nô hèn thần phục chúng. Luân lý là đạo lý Dân tộc bị chúng bắt buộc phải hiểu theo nghĩa của đảng Cộng-sản. Nghĩa là các tên đầu sỏ đảng CSVN là siêu-việt, là thần thánh, bất khả bình phẫm, bất khả nghi ngờ. Vì tôn giáo là phương tiện triết học, chuyên chở trên nền tảng đạo lý nhằm hướng dẫn con người trở về với bản ngã “nhân chi sơ tính bổn thiện” nên cũng thuộc vào phạm trù cần tiêu diệt. Cộng-sản phá hủy tận gốc rễ mọi hình thái có thể thúc đẩy con người dám ngẩng cao đầu. Nhân-dân Việt-Nam vì bị mỵ lừa bởi ngôn ngữ ẩn chứa tình cảm thiết tha và thiêng liêng như Tổ-Quốc, như đoàn kết, như tha thứ, như giống nòi... nên phải sa vào cạm bẩy và đã bị hành hạ, bị đày ải ngục tù, bị sát hại dã man. Nỗi hận hờn triền miên trở thành động lực lôi kéo nhân dân Việt Nam vùng dậy đòi quyền được làm người, làm chủ chính vận mạng mình và Quê-hương mình! Chắc chắn Nhân-dân Việt-Nam dứt khoát không bao giờ chấp nhận cái gọi là “Dân-chủ tập-trung” kiểu cộng sản. Thứ dân chủ mà HCM gân cổ ca ngợi tốt đẹp gấp triệu lần dân chủ tư bản phương Tây. Hãy nghe Nguyễn văn Trấn nguyên giáo sư trường Ðại-học Nhân-Văn Hà-Nội tường thuật một khóa học thứ nhứt có tên là – khóa “Trí-thức lớn” dành cho các nhà trí thức lớn, những nhà Nghiên Cứu Chính-Trị, Bác-Sĩ, Tỉnh Trưởng, Luật Gia, Giáo Sư...,như: Phạm-văn-Ðồng (thủ-tuớng), Nguyễn-văn-Tạo (bộ trưởng Lao-động), Hòang-Minh-Giám (Hiệu truởng truờng sở tại). Khóa học quan trọng đến độ phải báo cáo thường nhật cho HCM, và đích thân HCM đến giãi đáp thắc mắc cho các học viên. Bài tường thuật ấy như sau: “Bác không đi vào những vấn đề nêu trên bích báo. Sa chân vào đó thì làm sao ra được. Nhưng cũng không khỏi nói tới bích báo hỏi: “Dân-chủ tập trung là gì ?” HCM dã giải thích: “...Như các cô, các chú có đồ đạc, tài sản gì đó thì các chú các cô là chủ, đó là Dân chủ. Các chú các cô không biết giữ, tôi giữ giùm cho.Tôi tập trung bỏ vào rương. Tôi khóa lại và bỏ chìa khóa vào túi tôi đây. Ðó là tập trung!” Trong hội trường phía học viên lặng trang. Phía công-nhân viên, cười ì xèo.” Tại sao HCM dám xem khinh những “Trí thức lớn” như thế? Phải chăng: - Vì Hồ không hiểu được kiểu cười ì xèo biểu lộ sự khinh khi, chán chường, hay vì Hồ biết trí thức hèn, họ không dám có hành động của bậc Trí-thức chân chính.Tuy nhiên, Hồ cũng có phần e ngại vì trong bích báo đã rành rành tuyên bố: “Trần-Dần, Lê-Ðạt, Phan-Khôi, Các bác đi trước, rồi thì cháu theo.” (Những chữ trong “....” trích từ quyển Viết cho Mẹ & Quốc-hội của Nguyễn-văn-Trấn.Trang 187 – 188 – Văn-Nghệ xuất bản – 1995). - Hoặc vì đảng Cộng-sản là loại người không có tim nhưng lại có búa tạ và lưỡi liềm bén ngót, sẵn sàng sát phạt bằng những nhát búa ti tiện hèn hạ lên trên sinh mạng Dân-Tộc. CSVN cúi đầu, khom lưng, khúm núm trước quan thầy Nga sô, Tàu cộng; nhưng với Tổ tiên thì ngạo mạn hỗn láo mất dạy. Bài thơ dưới đây do HCM viết trên vách tại đền thờ Ðức Hưng-Ðạo Ðại-Vương Trần-Quốc-Tuấn khi đoàn quân của đảng CSVN nghỉ nhờ qua đêm trên đường từ cái gọi là “ chiến khu Việt-Bắc ” (nơi an toàn để hưởng lạc của tập đoàn đầu đảng HCM) về tiếp thu thủ-đô Hà-Nội. Từ đại danh-từ xưng hô “tôi, bác” đến khẩu khí của bài thơ chứng minh HCM là tên vô lại, là kẻ tiểu nhân đắc chí, cả gan dám sánh ngang vai với Tiền-Nhân lẫm liệt anh hùng - điều mà đạo lý Dân-Tộc không bao giờ dung thứ: Bác tôi, tôi bác - cũng anh hùng, Tôi bác cùng chung nghiệp kiếm cung. Bác đuổi quân Nguyên thanh kiếm bạc, Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng. Bác đưa một Nước qua nô lệ, Tôi dẫn năm Châu đến đại đồng. Bác có linh thiêng cười một tiếng, Mừng tôi cách mạng đã thành công. Bài thơ gây phẫn giận. Một Nho sĩ vô danh họa lại, và cho biết rằng: Thành quả kháng chiến của toàn dân đã bị Hồ và đồng đảng bằng thủ đoạn lưu manh đê hèn: gian lận, bịp bợm, cướp đoạt: Ngàn năn bia miệng tiếng gian hùng, Thế cũng xưng rằng nghiệp kiếm cung. Ðem nướng muôn dân trong lửa đỏ, Vùi thây trăm họ mảnh cờ Hồng, Cam tâm bán Nước cho Nga Pháp, Trơ mặt buôn dân với Giáp Ðồng. Một ván cờ gian ngàn tiếng nhục, Tội còn chưa kể, kể chi công! Chúng tôi là một trong hơn 80 triệu người VN xót xa, uất hận, hờn căm khi tập đoàn đảng CSVN thống trị nghiệt ngã Quê-hương. Chúng tôi cũng là một trong hơn 80 triệu dân Việt ước mơ chế độ hoang thú Cộng-sản tiêu tan dưới lửa phẫn hận. Toàn dân VN được tự-do chọn lựa chế-độ chính trị. Muốn ước mơ thành sự thực, chúng ta phải hành động. Chúng ta phải nghiêm khắc, dũng mãnh trả lời cho CSVN biết: Nhân-dân Việt-Nam (NDVN) đã hiểu bộ mặt thật ghê tởm đê hèn của họ. Hôm nay NDVN dứt khoát không còn khiếp sợ họ nữa. Chúng ta phải chứng minh cho nhân loại biết rằng chúng ta muốn gì. CSVN là chuyên viên láo khoét bịa đặt. Hãy dõng dạc tuyên bố rằng: “Chúng tôi là Nhân Dân đây!”. Bởi vì CSVN là tập đoàn buôn Dân bán Nuớc. Nhưng lúc nào cũng nhân danh quyền lợi của Nhân Dân (ND). Nên trong tập sách này, chúng tôi muốn chứng minh ND là ai, ND có cho phép CSVN được đại diện cho Họ không và cuối cùng là ND muốn gì? Nhân dân phải được nhìn như là một lực-lượng Dân tộc. Dù khác biệt về tuổi tác, tôn giáo, địa phương, sắc tộc, địa-vị, trình độ, đảng phái, khuynh hướng chính trị...nhưng cùng có mẫu số chung là tấm lòng ái-quốc và lương thiện. Họ là Nhân dân, vì họ bao gồm các thành phần công dân như sau: 1- Họ là những công-dân đã tham gia kháng chiến trong hàng ngũ Việt-Minh, nhưng họ có ý thức dám hy-sinh sinh-mệnh cá nhân để bảo vệ sinh mệnh Dân-tộc và lẻ phải. Điển hình, Họ là những người góp phần tạo nên biến cố Phong trào:”Nhân Văn” và “Giai phẫm”. 2- Họ là đông đảo quần chúng thấp cổ bé miệng, là thành phần bị trực tiếp chịu sự thống trị hà khắc của thế lực cai trị. Họ là thành phần mà CSVN phĩnh gạt gọi là “chủ nhân ông của Ðất-Nước”. Vì không có phương tiện tự vệ, vì không có phương cách để phản đối lối trùm đặt gán ghép ép buộc của kẻ thù; họ chỉ còn phương sách duy nhất bày tỏ sự khinh miệt, đối kháng bằng truyền khẩu, rỉ tai những câu thơ, hò, vè, nói lái, những câu chuyện khôi hài dí dõm nhưng đắng cay, sửa lời những bài hát...Loại văn chương bình dân nầy là suy tư, là ước mong và là tiếng nói chính thức của họ. 3- Họ là những người đã từng mù lòa dốc tâm đắc lực góp phần thực hiện cái gọi là “lý-tưởng Cộng-sản”, qua bao biến đổi tang thương, họ cũng đã rộng lòng chấp nhận những lý do ngụy biện cho bao hành động độc ác tày trời của ác đảng CSVN cầm quyền. Rồi hôm nay, vào tuổi chiều xế bóng; khi lương tâm trổi dậy họ nhận diện được chính họ đã từng là những tên đao phủ trong tập đoàn đao phủ có cái tên là Trung-Ương Ðảng CSVN. Giờ đây họ can đãm tự xếp mình vào“thành-phần phản-kháng”. 4- Dĩ nhiên, họ còn là những Trí thức chân chính, người dân lương thiện mà từ lâu đã là những chiến-sĩ lao mình trên tuyến đầu lửa đạn, chống quân vô lại trong băng đảng sơn lâm thảo khấu CSVN; hầu giành lại quyền làm người và tự do cho Dân-Tộc. Chúng tôi cũng muốn nhắc đến Lực-lượng những người Quốc-Gia chân chính yêu Nước nhưng Họ không cần có mặt trong tập sách nhỏ nầy; vì họ đã rõ ràng chọn lựa, dứt khoát và minh bạch ý chí bằng hành động, bằng thái độ như nhà Trí thức chân chính Hà-Thúc Như-Hỷ bày tỏ trong tác phẫm “Thiên hùng ca Dân-Tộc Việt” như sau: Dân Nước tôi Từ Vũ trụ kết tinh Có âm dương nhật nguyệt Có Tiên Rồng truyền thuyết. Và: Dân Nước tôi Trai gái một lòng Thề gìn giữ Non Sông gấm vóc Từng mang tên “Hòn ngọc viễn đông” Và cũng là: Một Quốc gia duy nhất Trong vùng Thái-Bình-Dương Dùng mẫu tự La-tinh Diễn âm tư tưởng Việt. Khi Quê-hương lâm nạn, những Chiến-Sĩ Quốc-gia như: Nguyễn-Khoa-Nam, Lê-Văn-Hưng, Phạm Văn Phú, Trần văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn-Văn Long v..v...đại diện từ Tướng Lãnh, đến Sĩ-Quan, Viên chức, binh Sĩ, Văn Nhân và thường dân đã tận trung báo Quốc: Một mai sau Và mãi mãi muôn đời Nguyễn-Khoa-Nam Tên Người còn nhắc nhở Người Anh hùng vị Quốc vong thân Sinh vi Tướng, tử vi Thần Một cái chết hơn ngàn lần sự sống Một cái chết làm cúi dầu giặc Cộng Ðể Miền Nam kiêu hãnh ngẩng mặt lên Cho Hương-giang rửa sạch ưu phiền Và Tiền giang triền miên thương tiếc. Một Ðất-Nuớc hoa gấm, thông minh và anh hùng như thế đã bị Hồ-chí-Minh và đám thủ hạ làm điên đảo, oan khốc, rên xiết lầm than, cơ hàn tủi nhục: Máu đã không đổ lan tràn Nhưng máu đã âm thầm ngấm sâu vào đất Một Việt-Nam thống nhất Nhưng Việt-Nam đã mất hết tình Người. Và : Ðến hôm nay có ai qua biển cả Trên sóng chít khăn tang trắng xóa Vẫn còn nghe tiếng khóc Mẹ già Tiếng hờn oán lan xa trong gió hú Trên đợt sóng nhấp nhô Bập bềnh trôi áo quần giày mũ Trôi tim về làng củ quê xưa Ðể nhắc Người nhà đừng mong chờ nửa Người ra đi đã chẳng hứa ngày về. Chẳng hứa ngày về nên đừng mong chờ, bởi vì ra đi là tái lập phòng tuyến mới, là tiếp bước Tiền nhân thề đem máu đào xương trắng hy sinh cho lịch sử thông giòng. Khi Ðất Nước lâm nguy phải trực tiếp chiến đấu, thực tế đã chứng minh rằng:“ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ” nên mảnh giấy văn bằng không còn cần thiết cho Người vì lương tri ái Quốc mà hôm nay vào chốn tử sinh: Hãy nổi lửa lên đốt hết văn bằng Vì Ðất Nước chỉ cần Những con tim và khối óc Những cánh tay hành động Những Tâm thức mở rộng Hãy dồn hết mọi nổ lực cho lịch sử sang trang, cho Tổ-Quốc sinh tồn, cho toàn dân reo mừng hoan ca: Kéo nhau thăm lại thành xưa Kỳ đài cao dựng lại ngọn cờ Bay phất phới giữa trời xuân mới Ðế đô xưa bồi hồi sống lại Chào đón bước chân bao Triều đại về đây Nhã nhạc vang lừng trên chín tầng mây Cờ lọng trống chiêng tưng bừng mở hội Tổng cộng những đại danh từ HỌ đó, chúng ta có đầy đủ chứng cứ bắt buộc đảng CSVN phải chấm dứt ngay tức khắc mọi sự lạm mạo nhân Nhân Dân. Ðó cũng là một trong những tang chứng mà đảng CSVN sẽ phải trả lời trước Tòa-án Quốc-Tế về tội ác chống lại Nhân-loại. Ðồng thời đảng CSVN cũng phải trả lời trước Tòa-án và lịch-sử Nhân Dân Việt nam về tội phản quốc và diệt chủng. Vì hãnh-diện là Người Việt-Nam nên chúng tôi cũng muốn được dự phần đóng góp vào trách nhiệm chung của toàn Dân-Tộc. Chúng tôi đã sưu tầm những nỗi niềm uất hận, những nhận định và những ước mơ của toàn dân Việt. Người làm nhiệm vụ sưu tầm xin tự xem mình như một chiến sĩ thu gom, chuyển tải một vài sự kiện thuộc giai đoạn đen tối nhất trong chuỗi hành trình lịch sử. Ðồng thời cũng xin được xem đây như là: những khẩu súng, những viên đạn, những trái phá, những hỏa châu, những thùng nhiên-liệu, tiếp trợ cho chiến trường sục sôi lửa đạn và tràn ngập căm hờn phẫn nộ. Hy vọng đây cũng là tài liệu cho những nhà viết sữ, hầu cung cấp cho hậu thế hiểu biết và có thêm kinh nghiệm về CSVN. Đồng thời cũng cung cấp cho các nhà đấu tranh vì lương-tâm và công lý sử dụng như là chứng liệu lịch sự. Từ những nguyên-nhân thúc đẩy trên, chúng tôi xin hân hạnh trình diện tập sách nhỏ nầy. Nhân đây, Chúng tôi chân thành kính tri ân các tác giả mà chúng tôi đã mạo muội trích dẫn.Để có đuợc sự sưu tầm nầy, chúng tôi phải học thuộc từ trong nước, nên chắc chắn là không được chính xác nhưng khẳng định là nguyên vẹn về ý chí và mục đích. Sự sưu tập nầy cũng từ những lá thư hoặc do bằng-hữu nói lại hay cắt từ những báo gởi tặng, hoặc do tình cờ chính chúng tôi tìm được, tại những trang báo, tạp chí mà chúng tôi không rõ xuất xứ để xin phép trước. Sở dĩ chúng tôi dám mạo muội như thế vì thiết nghĩ: - Những sáng tác ấy được các tác giả hình thành trong ý nguyện muốn góp phần tạo sức mạnh cho bánh xe lịch-sử chuyển động, nên cũng muốn đến tận lòng của mỗi người dân. - Vì không chuyên nghiệp, trình độ còn non yếu của chúng tôi, nên việc sắp xếp bố cục cũng như dẫn giãi chắc rằng sẽ chưa được hợp-lý và chính xác. Tất cả những nguyên nhân và ý nghĩ ấy, cộng với sự độ lượng của các tác giả có tác phẩm trích dẫn cũng như người đọc cảm thông và sẵn lòng tha thứ, chấp thuận. Ðó chính là điều kiện cho sự góp mặt của tập sách nầy. Trước khi bước vào phần chính, chúng tôi kính mời bạn đọc cùng với trí thức Hà Thúc Như Hỷ xác định trong tác phẫm “Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt” niềm tin sắc đá vào lẻ trường tồn của Dân Tộc Việt Nam cho dù đang phải ngậm ngùi nơi xứ lạ quê người trên buớc đường lưu vong chờ ngày quang phục lại quê hương: Giữa phút giây dường như tuyệt vọng Bỗng bừng lên trời hồng nắng ấm Người Việt hải ngọai Đã tìm ra lẽ sống Một niềm tin dõng dạc bước lưu vong “Tổ quốc không chỉ là núi là sông Mà là mảnh đất trong lòng Mang theo đến tận cùng trong cuộc sống

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét