Làn sóng điện thay thế thanh gươm, cây bút là phương tiện đi vào trái tim và khối óc mọi người. Mỗi chúng ta hãy là một chiến sĩ thông tin…Lời ngỏ cùng bạn đọc: Đại họa mất nước do bọn phản động là Tập đoàn Việt gian Cộng sản (VGCS) bán nước đang đến rất gần! Đây là cuộc chiến khó khăn hơn bất kỳ cuộc chiến nào trong lịch sử vì VGCS là một thế lực cực kỳ hiểm độc, chúng núp dưới danh nghĩa đồng bào, thậm chí là người thân của chúng ta nên đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo trước cạm bẫy do chúng giăng ra. Trong nước, để làm sập bẫy người yêu nước, chúng nhào nặn ra bọn Dân chủ "cuội", đấu tranh cò mồi như: Cù huy Hà Vũ, Thích Quảng Độ, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Đan Quế, Hà Sĩ Phu, Tô Hải, Nguyễn Văn Lý, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Tiến Trung, L.T. C.Nhân, Hoàng Minh Chính ... Tiếp tay cho chúng ở Hải ngoại là bọn chó đẻ Việt Tân và đám tay sai nằm vùng như: Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương thu Hương, Phật giáo VN Thống Nhất và các báo Dân làm báo, Quan làm báo, Đàn Chim Việt, Người Việt, BBC, VOA... Nên nhớ, chính lũ nằm vùng này còn nguy hiểm hơn cơ quan chuyên chính của VGCS rất nhiều vì chúng giả bộ đi với ta nhưng lại đưa ta vào mê lộ do VGCS giăng ra. Chúng ta, những người con dân Việt yêu nước, còn có ý thức trách nhiệm với Quốc gia - Dân tộc, vì tương lai bản thân và con cháu mình hãy thức tỉnh lương tri khi thời cơ tới cùng đứng lên đập tan Ngụy quyền VGCS.
Qua trang web này, những bài viết rất có giá trị đã được chọn lọc nhằm giúp Quý bạn đọc hiểu rõ hiện tình đất nước, những âm mưu tội ác ngày càng tinh vi và thâm độc hơn của bọn VGCS đối với dân tộc VN để mà qua đó chuẩn bị cho mình những kinh nghiệm đấu tranh hiệu quả nhất trước khi dấn thân vì đại nghĩa. Cùng chung tay góp sức, xin hãy phổ biến trang Web này đến với tất cả mọi người (Download Blog tại đây...)

Tại Sao Cần Phải Noi Gương Những Nhà Lãnh Đạo Họ Ngô

Các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và những người anh em khác trong gia đình họ Ngô Đình được giáo dục và hun đúc tinh thần yêu nước nhờ truyền thống Nho Giáo lâu đời. Có lẽ cũng chính vì được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền thống yêu nước như vậy, nên những người con trưởng thành từ gia đình họ Ngô Đình đặc biệt là các ông Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đều thể hiện lòng ái quốc tột bực. Lòng yêu nước tồn tại trong các ông đã biến thành những vũ khí làm cho kẻ thù phải nể sợ. Không phải tự nhiên mà tên giặc đại gian ác, lắm mưu mô xảo quyệt như Hồ Chí Minh phải chịu thua trước khí phách kiên cường của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi trong hoàn cảnh dù tay không tấc sắt lại nằm trong tay giặc, nhưng ông đã khẳng khái vạch mặt Việt Gian của Hồ bằng câu hỏi “Tại sao ông giết anh tôi?”. Câu nói đó ắt hẳn một người bình thường khó có thể làm được trong hoàn cảnh ấy, bởi Hồ lúc đó đầy uy quyền và dưới tay hắn là cả một băng nhóm du côn tàn bạo giết người không ghê tay. Thêm nữa, đứng trước nguy cơ bị thiệt hại tính mạng mà chính ông biết rõ hơn bao giờ hết nhưng ông đã không chịu lui bước, không chịu nhượng bộ với những kẻ giết mướn khi ông nói: “Mình là Tổng thống thì phải giữ tư thế của vị Tổng thống. Dầu mình chết cũng là vị Tổng thống”.....

Vinh danh TT Ngô Đình Diệm

http://www.youtube.com/watch?v=MvqH5X7glXA
Vinh danh T.Thống Ngô Đình Diệm 
 Một đời ái quốc - Hy sinh vì dân tộc
   
Một đời quyết tâm bảo vệ chủ quyền Quốc gia và quyền tự quyết Dân tộc! **Suy tôn Ngô Tổng Thố
Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do
Người cương quyết chống Cộng
Bài phong kiến bốc lột
Diệt thực dân đang giắt reo tàn phá
Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời
Gương hy sinh ngàn muôn tiếng không hề phai
Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với Người
Thề đồng tâm say đắp cho ngày mai
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin thượng đế ban phước lành cho người
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống
Chung đắp say nền thống nhất sơn hà.

TT Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh

                                         
Cái dống nhau duy nhất là hai người cùng là cấp lãnh đạo tối cao của Miền Nam và Miền Bắc Việt nam.
            Cả hai ông đều khai sáng ra hai thể chế chính trị ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp dân chúng Việt nam.
            Chúng ta không nên lấy gia phả, học vấn hay bới móc đời tư để luận bàn công và tội của 2 nhân vật nầy. 
Chúng ta chỉ nhìn vào thực tại của những thành quả của họ đã đem lại cho quốc gia dân tộc mà thôi.  
 
 
1. QUỐC GIA
               Tổng thống Diệm đã chết vì ông muốn bảo vệ quốc thể, ông chống lại sự khống chế của ngoại bang bất cứ từ đâu đến. Điều nầy không ai chối cãi được. Người đui mù cũng nhận thức rõ ràng là chỉ cần cụ Diệm gật đầu một cái, là Cam ranh thành ra đảo Guam hay là Hạ uy di mà người Việt nam không được lai vãng.
            Tại Hồng kông, trong thời người Anh bảo hộ, đã có công viên với tấm bảng ghi rõ "cấm người Tàu và chó". Các bạn có muốn như thế không ? Dân tộc Việt nam có muốn thế không ? Hỏi tức là trả lời.
            Thế tại sao TT Diệm bị giết chết ? Xin thưa Tổng Thốngï chết vì Do thái mưu giết ông vì  Tổng Thốngï chỉ biết chủ quyền của dân tộc ta trên đất nước ta.
            Ngược lại, chủ tịch Hồ chí Minh đã áp đặt lên nước Việt nam một thể chế vong bản, sắt máu. Đó là niềm bất hạnh to lớn nhất của dân tộc ta.
            Ông Hồ chủ trương hủy diệt quốc gia, vì chủ thuyết cộng sản luôn luôn cổ súy thế giới đại đồng, thế giới nầy lúc bấy giờ do Nga sô cầm đầu. Từ tư tưởng đến hành động đều rập khuôn theo tất cả những nước trong Liên bang Xô viết.
            Chủ quyền Quốc gia không bao giờ được đặt ra. Nga sô sát nhập nhiều nước nhỏ thuộc ảnh hưởng của họ vào nước Nga. Những nước đó trở thành những tỉnh của Nga. Cho đến ngày nay, họ phải trải xương máu ngút ngàn trên con đường giành độc lập.
    
2. DÂN TỘC
  
Làm người dân Việt nam dưới thời  Tổng Thống Diệm là một niềm kiêu hãnh. Tôi xin kính hỏi quí vị như vậy có gì bằng?
  
Ngược lại,dưới chế độ cộng sản, con người là cỏ rác. 
Ai ai cũng phải nuốt hận, ngoài trừ Trung ương Đảng bộ.
            Người dân bị thảm sát, không phải vì họ có tội, nhưng vì Đảng đã ấn định phải giết bao nhiêu người trong một xã ấp do chương trình đấu tố qui định túc số, chỉ tiêu.
            Cương lĩnh, chủ trương, hành động của cộng sản Việt nam cùng rập khuôn theo tất cả những nước cộng sản khác. Cho nên họ không thể đổ lỗi, hay chối cãi là những vụ tàn sát nhân dân vì do sai lầm của một hai người lãnh đạo.
            Ở Nga sô cũng giết, cũng bỏ tù triệu triệu người; 
            Ở Trung quốc cũng giết, cũng bỏ tù triệu triệu người, 
            Ở Kam Pu Chia cũng giết, cũng bỏ tù triệu triệu người,...v.v., 
            Ở Việt nam có khác gì đâu, cũng giết, cũng bỏ tù triệu triệu người.
            Vô nhân dạo là bản năng của cộng sản chứ không phải sai lầm nhất thời, đơn lẻ.
            Tố Hữu, phó thủ tướng đặc trách Văn hóa, là phát ngôn nhân, là tiêu biểu cho cái tư tưởng, lập trường, chủ trương, đảng cương của cộng sản Việt nam: Ông ta đã diễn đạt hành động căn bản của người cộng sản Việt nam cai trị dân như sau:
     Hiệu lệnh của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc:
 
a    Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
b    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong.
 
            Tôi xin trình để quí vị rõ 3 yếu tố:
1          Giết ai ?
2          Giết để làm gì ?
3          Giết như thế nào ?
            Tôi nghiên cứu thấy khi tìm câu trả lời cho câu hỏi "Giết để làm gì?", thì cũng trả lời luôn cho câu hỏi "Giết ai?"
            Giết là hành động cuối cùng của những hình phạt, nó gây kinh hoàng cho gia đình nạn nhân, cho toàn thể dân chúng, họ phải lấy đó làm gương, vì nếu vi phạm luật pháp hay vi phạm chỉ thị cấp trên thì cũng bị giết như vậy.
            Có thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Khờ Me nào trồng lúa hay đóng thuế cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của ông Hồ đâu? Thế mà phải giết, giết để khủng bố tinh thần, giết để cho lúa tốt, thâu thuế được nhiều.
            Lúa tốt là do sức lao động nông dân Việt nam tận lực cày cấy, thuế do toàn dân đóng góp. Như vậy đối tượng của những chủ mưu giết người nầy là toàn thể dân chúng Việt nam, nhất là nông dân, chứ không có thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Lèo nào cả. 
            Quí vị có thấy cái lương tri cộng sản Việt nam khủng khiếp ra sao chưa?
            Giết như thế nào?
Xin trả lời:            "Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,"
            Giết bằng dao găm, bằng mã tấu, bằng súng. bằng búa, bằng gậy, bằng chôn sống, mà bàn tay không phút nghỉ. Tức là từ sáng đến tối và từ tối đến sáng, không có lúc nghỉ ngơi. Tức là máu người Việt sẽ chảy thành sông, từ bắc chí nam, từ đỉnh núi đến cửa biển.
            Người dân bị khủng bố, bị bóc lột đến xương tủy, khi đóng thuế xong thì phải ăn củ chuối sống qua ngày.
            Kính thưa quí vị, đó là cộng sản Việt nam đã thể hiện chính sách rùng rợn của bộ máy đàn áp bao trùm cả không gian và thời gian lên đầu nhân dân ta. "Thề phanh thây uống máu quân thù !" là chủ trương của Đảng, quân thù đây là "trí phú địa hào" mà tiêu chuẩn do chúng qui định.Như Pol Pot qui định thành phần trí thức là những người biết đọc biết viết!
                       Do tội ác tầy trời của Giặc Cờ Đỏ, chúng không còn là người Việt nam nữa, tôi không coi chúng là con người.
 
3. ĐỘC LẬP
            Miền Nam thực sự độc lập dưới thời cụ Ngô, không ai chối cãi được điều đó. Nếu nước ta không độc lập thì Do thái không tìm giết cụ Ngô làm gì.
            Còn Miền Bắc, tất cả đều vay mượn ngoại bang, nhận chỉ thị từ Mạc tư khoa, từ Bắc kinh thì độc lập chỉ là một chiêu bài, mà chúng to họng rêu rao để lường gạt! chúng vay nợ để mua súng đạn vào Nam bắn giết dân lành, cho nên chúng phải cắt đất, cắt biển để trả nợ cho Tàu.
            Hai câu sau của Tố Hữu là câu kết của chủ nghĩa cộng sản Việt nam:
 
c         Cho đảng bền lâu, cùng rập bước, chung lòng
d         Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt.
 
            Tôn thờ ngoại bang một cách tuyệt đối. Lãnh tụ ngoại bang thành những đấng thần linh, mà người cộng sản Việt nam phải thờ phượng, phải cúi đầu quì gối thì cái tư cách con người Việt nam đâu còn gì nữa. Từ tư tưởng đến hành động phải tuân theo chỉ thị của Đấng Tối cao là chóp bu Nga Tàu. Đó là tinh thần nô lệ, dơ dáy, ghê tởm tận cùng. Cho nên chúng ta không cần luận bàn đến chữ ĐỘC LẬP ở cộng sản Việt nam nữa.
            Chữ THỜ ở đây nghe nó đau xót cho những người đã hy sinh kháng thực dân Pháp giành độc lập, bây giờ bọn cướp chính quyền lại bắt dân tộc phải thờ tân thực dân Liên xô còn ác độc, sắt máu trăm lần hơn bọn Pháp.
            Dưới thời thực dân cai trị, dân chúng có tức mình chửi bới "thằng Tây, con mụ Đầm" thì có sao đâu, miễn là không phá rối trị an là được. Nhưng ở thể chế Việt cộng, bất cứ câu nào hơi xúc phạm tới "đồng chí " Liên xô hay Trung quốc vĩ đại là đi tù rục xương. Cái nô lệ tư tưởng đó khủng khiếp gấp ngàn lần cái nô lệ tàn bạo của thực dân. Một thể chế Việt cộng ngu dốt như thế nầy mà cai trị dân tộc ta thật là một cái nhục ngàn đời.
  
   
4. TỰ DO
             Miền Nam hoàn toàn tự do, từ báo chí thông tin đến cả những chuyện nhảm nhí cũng được in bán. Tôn giáo, đảng phái không cộng sản thì không bị cấm đoán.
            Ngược lại tại Miền Bắc thể chế cộng sản của Việt nam lúc bấy giờ còn kinh khủng, tệ hại hơn thời Pháp thuộc.
            Dưới sự cai trị của Việt cộng từ miếng ăn, thức uống, đến di chuyển qua làng bên cũng bị kiểm soát. Khi ăn khi ngủ, khi làm, cây chanh, cây dừa cũng bị kiểm soát. Toàn thể dân đen bị cưỡng bức lao động, phải đạt chỉ tiêu, phải đi họp, phải học tập chủ nghĩa ngu đần của Đảng, không tuân theo thì tù rục xương. Sản phẩm thành tựu do Đảng quản lý, mánh mung dành cho cán bộ hưởng trọn.
   
 
5. HẠNH PHÚC
 
            Lịch sử đã chứng minh rõ:
➀ Chính thể Quốc gia với ông Ngô đình Diệmcó trọng tội
                chà đạp nhân cách và quyền lợi hiến định của vài ba chục người dân ở Miền Nam,
                cũng có thể đã giết bậy bạ vài ba chục người,
Nhưng     chính thể nầy đã đem lại thật sự tự do và hạnh phúc cho toàn dân, hơn nữa chủ quyền quốc gia được trọn vẹn, người dân kiêu hảnh vì không còn bị ngoại bang chà đạp lên đầu lên cổ như xưa.Tuyệt đại đa số dân chúng sung túc, an bình, thuận thảo.
 
                Ngược lại
➁ Việt cộng với ông Hồ chí Minhcó trọng tội
                chà đạp nhân cách, quyền lợi, tự do của toàn dân,
                đã giết và tù đày cả triệu triệu người vô tội,
Nhưng      chỉ để đem lại hạnh phúc, phú quí cho vài ba chục người của Chính trị bộ, và nước Việt nam trở thành tên nô dịch đắc lực nhất của âm mưu bá quyền Xô viết.toàn thể dân chúng phập phồng lo sợ, luôn luôn bị cưỡng bức lao động như trâu ngựa.và nhờ vậy mà Do thái gian tà mới cấu kết được với chúng. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã thế thôi.
  
 
6. NHÂN DÂN
 
        Dưới thời Tổng thống Ngô ngoại trừ một số ít thành phần bất mãn vì bị loại khỏi chính trường, còn tuyệt đại đa số dân chúng đã được sống an lành nên chúng ta không nghe thấy câu vè câu ca nào miệt thị Tổng thống cả, ngược lại Chủ tịch Hồ thì dân chúng khi nói đến "râu Cụ Hồ" thì ai cũng hiểu là lông của bộ phận sinh dục. Người dân Miền Bắc phải làm đầu tắt mặt tối cũng không đủ ăn, mua nhu yếu phẩm phải sắp hàng dài dài, mà chỉ được mua theo tiêu chuẩn, như câu
                                     Một năm ba thước vải thô
                                    Làm sao che kín Bác Hồ em ơi!
 
        Tiêu chuẩn 3 thước vải thô cho một gia đình gồm hai vợ chồng và hai đứa con quả là quá ít. Ví Bác Hồ với bộ phận sinh dục ( kể cả râu cụ Hồ) thì chúng ta đã hiểu lòng dân như thế nào, cũng như tư cách và tài năng cấp lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa của Miền Bắc nó ra sao.
  
   
7. NHÂN VIÊN HÀNH CHÁNH và CÁN BỘ
 
        Trong Nam ở trong cái thế kẹt về cán bộ và viên chức chính phủ vì hầu hết tại các cấp là những thành phần lưu lại từ thời Pháp thuộc, tức một bọn tay sai thực dân bán nước. Dưới thời Tổng thống Diệm họ cũng phải lo thủ thân, sợ bị quở phạt vì họ thấy là sự thông tin rất bén nhạy của tổ chức mới, nhiều khi các báo cáo mật đã trực tiếp đến tay Tổng thống, cho nên guồng máy hành chánh sinh hoạt bình thường, dân chúng không kêu ca, không có vụ "Ông Già Bến Tranh". Tổng thống Diệm đã cho thiết lập trường Thiếu Sinh Quân để đòa tạo cán bộ nòng cốt phục vụ chế độ hữu hiệu, ngoài ra trường "Quốc Gia Nghĩa Tử" cũng là môi trường đãi ngộ các hậu duệ những người đã hy sinh cho tổ quốc. Chương trình đào tạo đặt nặng về chuyên môn cũng như đạo đức, đó là kế hoạch "trăm năm trồng người" theo gương tiền nhân. Thời gian đã không thuận lợi cho công việc đào tạo lâu dài, cho nên gia đình Tổng thống đã bị hại vì tàn dư tay sai thực dân Pháp khát máu và lươn lẹo như Trần văn Đôn, Đổ Mậu, Dương văn Minh, Mai Hữu Xuân v.v...còn dược nắm giữ những chức vụ then chốt.
        Ngoài Bắc thì ngược lại, chủ nghĩa cộng sản "đỉnh cao trí tuệ loài người" đã có phướng thức đào tạo cán bộ và nhân viên hành chánh một cách nhanh chóng mà hiệu năng vô song.Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thì những cán bộ nòng cốt của chính phủ cách mạng phải thuộc thành phần chuyên chính vô sản, mà sự huấn luyện chỉ cần vài giờ mà thôi (thay vì kế hoạch cả mấy chục năm như trong Nam). Thành phần nhân dân chuyên chính vô sản có môn bài, không ai chối cãi được là bọn du đãng, tù hình sự và ăn mày, Xuất thân từ nhân dân, cho nên chỉ sau vài giờ chỉ vẻ về đấu tố là những vị chuyên chính vô sản nầy đã trở thành chánh án, chủ tịch ủy ban nhân dân, chư vị chủ tọa các buổi đấu tố rất sôi động và thành công vượt chỉ tiêu, tất cả các bản án được thu gọn vì đã được qui định sẵn, nhưng các cuộc hành hình thì được kéo dài nhục mạ và hành quyết rùng rợn để tỏ rõ vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng của Bác Hồ vô vàn kính yêu. Tài sản nạn nhân bị tịch thu chia gọn cho các vị chuyên chính vô sản có công lao với cách mệnh. Những vị chánh án và chủ tịch ủy ban theo thời gian và thành tích cách mệnh đương nhiên là rường cột của chế độ, được nâng cấp, được đề bạt thành ủy viên huyện, tỉnh, rồi trung ương, tổng bộ trưởng, ít ra cũng giám đốc cơ quan, cho nên từ trên xuống dưới đều nhất trí tung hoành lập thành bộ máy đàn áp kiên trì lập trường chuyên chính vô sản xôi thịt. Hậu quả tất nhiên phải là vậy, dân chúng ngày nay đã thấy rõ cái bộ mặt của chế độ, vì toàn bộ thành phần chỉ huy nòng cốt từ tên chóp bu xuống dưới đến an ninh khu vực đều do tiêu chuẩn  tuyển lựa từ thành phần chuyên chính vô sản đã nói. Tất cả chương trình hành động và thành tích đều sáng tỏ: bắt bớ, giam cầm, cơm tù, gả bán đàn bà con gái dã man hơn thời tiền sử cho  ngoại kiều tật nguyền, đó là hậu quả đương nhiên của chính sách trồng người và xây dựng Đảng.
 
    Ngay năm 1959 tôi có văn thư bằng Pháp văn gởi từ Paris đến ông Bí thư đảng Cộng sản Liên bang Xô viết là ông Krutchev để bày tỏ cái lủng củng của danh xưng: ĐẢNG CỘNG SẢN. (văn thư nầy không được trả lời, và không thể trả lời được)
 
1.         Cộng sản là cái gì cũng phải chung: nhân lực, tiền của, quản trị, hành chánh gom lại trong một tập thể. Nói gọn, Cộng sản là chung.
CÒN
 2.         Đảng là tổ chức của một số người cùng lý tưởng, cùng chính kiến. Có phân biệt đảng viên và không đảng viên. Có Đảng tất phải có phân ranh, có trong và ngoài. Đảng là chia rẽ. Còn đảng là còn phân ranh, là còn chia rẽ.
 
  NHƯ VẬY
Đảng Cộng sản là cái gì kỳ lạ vậy? vừa chung (cộng sản) vừa riêng (đảng).Cái lọng cọng trẹo họng là ở chỗ đó. Ngay từ danh xưng, mục đích đến cấu trúc, tổ chức đều thật sự lủng củng sai lầm, khật khùng.
            Khi mọi người cùng bình quyền, bình đẳng thì cùng bầu ra chính phủ, quốc hội, những người thi hành kỷ cương xã hội chủ nghĩa, hà cớ gì phải lập đảng. Như vậy cần phải dẹp cái nguồn gốc của mọi tai họa đó là ĐẢNG.
           Người Cộng sản cũng đáng thương, họ làm những việc ô trọc, cướp của giết người mà cứ tưởng là đi giải phóng những nước không cộng sản. Giáo điều của cộng sản là rập khuôn theo Do thái giáo, cũng sắt máu, cũng gian ác, cũng đàn áp, cũng bóc lột, cũng ăn gian nói dối, điêu ngoa đểu cán.
            Cũng có nhiều người cộng sản như ông tướng Trần Độ, v.v..., đã phản tỉnh sau năm ba chục năm theo đảng, sau khi bàn tay đã nhúng máu đồng bào vô tội được "giải phóng" về bên kia thế giới. Những loại người nầyï phải thực sự ý thức họ là những kẻ sát nhân vô liêm sỉ đã đem tai họa khủng khiếp đến dân tộc Việt nam. Họ phải thực sự phản tỉnh và cầu xin chúng ta ân xá cho họ. Khi đó người Quốc gia sẽ rộng mở bàn tay thâu nạp họ, tạo cho họ có cơ hội đái công chuộc tội. Người Quốc gia chúng ta chỉ chấp nhận họ khi họ thành tâm phục thiện, cải tà qui chánh, tâm phục khẩu phục, và họ phải đứng lên đạp đổ cái thể chế man rợ mà họ đã dựng nên, đã tàn hại quê hương, đất nước, dân tộc. Họ phải ý thức được những điều mà họ đã làm là hại dân hại nước.
            Người Cộng sản, với thành tích gian ác dã man lươn lẹo, dùng để cướp chính quyền, nếu thành tâm cải tà qui chánh, thì phải tự nguyện dập đầu tạ tội trước quốc dân, phải gắng sức hủy diệt cái chính quyền gian ác mà họ đã dựng lên, lúc đó người Quốc gia nên tha thứ cho họ, mà như vậy dân tộc mới thực sự thoát ách Cộng sản, mới có đoàn kết và mới có được an toàn hạnh phúc, tự do, công bình, nhân ái.
             Tôi chủ trương không oán thù người cộng sản nếu họ biết cải tà qui chánh, nhưng nếu họ tiếp tục ngang ngược mà phía Quốc gia lấy lại được chính quyền thì phải đem lũ ngoan cố nầy ra trừng trị theo pháp luật.
            Vì không chấp nhận linh hồn, không chấp nhận đầu thai, cho nên cộng sản cũng như Do thái giáo không biết tiền oan nghiệp chướng. Chúng hành động hại người bất kể hậu quả, vì không biết có linh hồn, không biết có nghiệp quả.Chúng lập luận rằng cách đây 2 thế kỷ chỉ có 1 tỷ người, bây giờ là 6 tỷ, như vậy linh hồn ở đâu mà ra?. Cho nên những người theo chúng đều đồng ý xử dụng tất cả những thủ đoạn bất nhân bất nghĩa để giết người lành, người vô tội mà không lo sợ gì cả. Thực ra chúng không hiểu rằng trái đất của chúng ta rất "trẻ" chỉ bốn tỷ năm, trong lúc vũ trụ đã có từ 14 tỷ năm. Và ngoài ra còn những vụ trụ khác hằng tỷ tỷ năm. Khoa học ngày nay chỉ là những bước đi chập chững non nớt mà thôi.
            Cái nguy hại khủng khiếp nhất là thời kỳ "hậu Cộng sản". Nếu chúng ta không kíp lo toan thì dân tộc ta sẽ bị một cổ hai tròng như Nga sô ngày nay: Mafia và tàn dư cộng sản.
            Theo tin tình báo chúng tôi được biết từ năm 1986 CIA và Do thái đã giúp Việt cộng đào tạo xong một số chuyên viên kỹ thuật mọi ngành ngõ hầu sau nầy sẽ tiếp tục cỡi đầu cỡi cổ dân chúng Việt nam.
            Tình hình đất nước hiện nay cho thấy dân chúng cơ cực lầm than, màn trời chiếu đất, trong lúc bọn lãnh tụ xa hoa có cả  tỉ đô la để ở ngoại quốc, chúng ta không ngạc nhiên về sự vô liêm sỉ của thú rừng, xuất thân "chuyên chính vô sản".
            Các em bé, thanh niên, thiếu nữ bị đem bán như những súc vật để làm nô lệ cho Kờ me đỏ, Tàu cộng, Đài loan...để hầu hạ bọn tật nguyền suốt đời. Chủ đích của bọn Giặc Cờ Đỏ là đạt thành tích nầy khi chúng quyết tâm giải phóng Miền Nam, và đây chính là chủ trương của bọn Cộng con, hậu duệ của thành phần chuyên chính vô sản thời ông Hồ tức là bọn du đãng và ăn mày.
            Cái thể chế Mafia hậu cộng sản do CIA đang tạo lập nó vô cùng thảm khốc không thua gì cộng sản sắt máu Lénine-Staline-Mao-Pol Pốt. Chúng muốn cướp đoạt tài sản của ai thì cứ bắt nhốt khổ chủ, khảo tra đến chết, buộc phải nhận tội. Chúng vu cáo và bắt bớ để làm tiền. Những người bị đưa ra tòa án xét xử đã được chúng ghim một cây kim vào cổ họng thì không thể nào tranh cải hay biện bạch nổi. Không biết bao nhiêu người ở hải ngoại đem nhiều triệu đô la về nước đầu tư, rồi cũng phải mang đầu máu chạy trối chết về Úc hay Mỹ, chưa bị giết là may phước lắm rồi. Còn toàn thể dân tộc ta khốn khổ không chạy đi đâu được thì sao đây ?
  
   
8. LÃNH ĐẠO
             Tất cả những vấn đề nên trên  đây đều nằm trong căn bản Cái thùng rỗng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc lúc nào cũng bô bô ré lên ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, trên thực tế chúng làm gì có ĐẠO ĐỨC.Cái lũ cách mạng từ cha ông, từ khởi thủy đến ngày nay và về sau do nguồn gốc cách mạng chuyên chính vô sản luôn luôn mang theo hành trang tiềm tàng trong huyết quản di truyền ăn bám ăn hại du đãng ăn mày phút chốc trở thành quan tòa, cấp chỉ huy, cấp lãnh tụ hiếu sát do bàn tay Mac-xít Lê- nin- nít đào tạo nên. Cái thể chế hiện nay là do đổi mới từ rắn hổ man thành con mãng xà tinh độc hại.

Thống Ngô Đình Diệm

Thống Ngô Đình Diệm
Các bài viết chọn lọc về Tổng thống Ngô Đình Diệm 

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người đã thành lập Đệ-Nhất Cộng-Hòa Việt-Nam, và là vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam. Đáp lời mời của Quốc Trưởng Bảo Đại, Người đã về chấp chánh ngày 25/6/1954, lúc tình hình đất nước vô cùng đen tối: Lãnh thổ đang trên đà qua phân, quân đội Pháp đang còn thao túng, đảng Bình Xuyên và các giáo phái đang làm loạn sứ quân… Thế nhưng, sau khi lãnh thổ bị qua phân bởi Hiệp Định Genève ngày 20/7/1954, chỉ trong có vài năm. Người đã đạt được những thành quả làm ngạc nhiên cả chính giới quốc tế; ấy là biến Miền Nam Việt Nam nhiễu nhương, lạc hậu về mọi phương diện, thành một Quốc Gia có kỷ cương, tương đối thanh bình, sung túc và tự do, dù Việt Minh vi phạm Hiệp Định Genève: 20/7/1954, tiếp tục khủng bố, phá hoại, với sự trợ giúp của khối Cộng sản.
 
Thay vì viện trợ đầy đủ cho Miền Nam, để chống lại du kích chiến của Việt cộng, “đồng minh” Hoa Kỳ không những chỉ viện trợ Miền Nam một cách cầm chừng, mà còn đề nghị đổ quân vào Miền Nam, để mở cuộc chiến tranh quy ước. Đề nghị này, là một hình thức bảo hộ, vi phạm trắng trợn chủ quyền Quốc Gia, nên Tổng Thống Ngô Đình Diệm cương quyết từ chối. Tổng thống John F. Kennedy, qua Đại sứ Henry Cabot Lodge, đã tung tiền mua chuộc bọn tướng Khố Xanh, Khố Đỏ, âm mưu lật đổ và sát hại Người cùng bào đệ là Cố vấn Ngô Đình Nhu ngày 01/11/1963. Âm mưu của Tổng thống Kennedy đã để lại một vết nhơ trong lịch sử Mỹ Quốc, vì ông là Tổng thống Thiên Chúa Giáo đầu tiên của Hoa Kỳ, đã gây ra vụ ám sát Tổng Thống Thiên Chúa Giáo đầu tiên của Việt Nam. Chưa đầy ba tuần lễ sau vụ thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Kennedy đã bị ám sát tại Dallas, Texas, ngày 22/11/1963. Nghe tin dữ, Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson, chỉ hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm treo trong văn phòng ông và nói với thượng Nghị sĩ Hubert Humphrey:
 
“Chúng ta đã nhúng tay vào vụ giết ông này. Bây giờ việc ấy đang xảy ta tại đây”. (Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm/ Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức).
 
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính, một vị quốc trưởng lương thiện, một tín đồ ngoan đạo, không phạm một lỗi lầm nào nghiêm trọng về công vụ hay về đời tư, để có thể vin vào đó, mà làm đảo chánh. Thế là người ta ngụy tạo ra và áp đặt cho Người một cái “tội”: Ấy là “tội kỳ thị và đàn áp Phật giáo”. Thật ra, chính quyền Ngô Đình Diệm đã phạm một sơ hở để cho người ta vu khống: Ấy là áp dụng không đúng lúc Nghị định Quy định treo cờ. Số là khi đi kinh lý một Khu Trù Mật, thấy Quốc Kỳ được treo thưa thớt giữa một rừng cờ Công giáo, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giận dữ nói với Bộ Trưởng Bùi Văn Lương:
 
“Ông Bộ Trưởng nhớ ban hành một quy định việc treo cờ. Cờ tôn giáo chỉ được treo trong khuôn viên nơi thờ phượng”.
 
Thay vì áp dụng nghị định ấy trước tiên cho một ngày lễ Công giáo, thì đã áp dụng vào ngày Phật đản, nên vô hình chung như có tính cách “kỳ thị” vậy. Và chính quyền Kennedy đã triệt để khai thác sự vụng về ấy bằng những hành động gian ác, chẳng hạn như CIA đã đặt bom nổ chậm tại Đài Phát Thanh Huế, để sát hại Phật tử, rồi quy tội cho chính quyền Ngô Đình Diệm, như Phòng Thông Tin Mỹ xúi dục báo giới phản đối Cơ quan an Ninh Việt Nam lục soát các chùa, để tịch thu vũ khí và câu lưu những cán bộ Cộng sản nấp bóng chùa dưới chiếc áo cà-sa, như Tòa Đại sứ Mỹ chứa chấp, bảo vệ tên sư Cộng sản nằm vùng đã sách động Phật tử xuống đường, phá rối an ninh, đó là “nhà sư” Thích Trí Quang, như Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đã ngăn chặn cuộc điều trần về kết quả điều tra của Phái đoàn Liên Hiệp Quốc bất lợi cho Hoa Kỳ, vì Phái Đoàn Điều tra đã kết luận là không có kỳ thị và đàn áp Phật giáo tại Việt Nam, một kết luận vô tư, vì Trưởng Phái đoàn là Đại sứ của Tích Lan (Sri Lanka), một nước Phật giáo.
 
Cái bất lương của chính quyền Hoa Kỳ đối với đồng minh Việt Nam ở đầu thập niên 1960, là ở chỗ đó.
 
Nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát, Mao Trạch Đông đã nói:
 
“Cả ông Hồ Chí Minh và tôi đều tin rằng, ông Ngô Đình Diệm không phải xấu như thế. Chúng tôi đều tin tưởng rằng, Hoa Kỳ còn phải duy trì ông ta cho đến nhiều năm nữa… Nói cho cùng, sau khi ông bị ám sát, sự trống rỗng lãnh đạo ở Miền Nam to lớn như giữa Trời với đất”. (Mao Trạch Đông/ The Viet Nam reader, tr.214).
 
Vì không có lãnh đạo, nên sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm nằm xuống chưa đầy hai năm, tình hình Miền Nam suy sụp tưởng chừng như sắp rơi vào tay của Việt cộng, đến độ Hoa Kỳ đã can thiệp bằng quân sự. Ngày 8/3/1965, Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ ở Đà Nẵng, mà chính phủ Phan Phuy Quát với Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Bùi Diễm vẫn “không hay biết” gì cả, và đã coi Miền Nam là thuộc địa của Hoa Kỳ, điều mà chính quyền Ngô Đình Diệm cương quyết chống đối. chính quyền Phan Huy Quát ra thông cáo ghi vắn tắt rằng: “Việc Mỹ đưa quân vào đã được sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam”. Hoa Kỳ đã lấy sức mạnh của một cường quốc, để chi phối một đồng minh nhược tiểu. Đó là một hình thức mới của đế quốc, của thực dân. Mao Trạch Đông đã tiên liệu trước sau gì rồi Mỹ cũng sa lầy ở Việt Nam, nên trong tháng 6/1965, đã nói với ký giả Edgar Snow:
 
“Người Mỹ đã không nghe lời ông Diệm”. (The Americans had not listened to Diệm). Câu này ngụ ý là Mao Trạch Đông đã mặc nhiên coi ông Diệm - ít nhất trong vấn đề Việt Nam và Đông Nam Á - có viễn kiến chính trị và khả năng lãnh đạo hơn Kennedy” (Nguyễn Văn Chức/Thế Giới Ngày Nay tr. 18). Điều này, cũng đã được tướng Thomas A. Lane nói lên:
 
“Ngô Đình Diệm quả là một vĩ nhân của thế kỷ 20. Xét về mặt khôn ngoan, đạo đức và thành công trước những khó khăn dồn dập, tài lãnh đạo và lòng yêu nước của ông đã lên đến chỗ tuyệt đỉnh. So sánh, thì thấy tài cán của các chính khách Mỹ, cả trong Hành pháp lẫn Lập pháp đều tầm thường hết” (Tiến sĩ Phạm Văn Lưu/Biến cố chính trị Việt Nam hiện đại, tr.205).
 
Cái bất tài của chính quyền Hoa Kỳ khi thi hành chính sách chống Việt cộng ở đầu thập niên 1960, là ở chỗ đó.
 
Nếu T.T. Kennedy có đức độ và khôn ngoan, có viễn kiến và tài lãnh đạo thì ông ta đã không thất bại trong vụ đổ bộ người Cuba chống Cộng lên Vịnh Con Heo ở cuối tháng 4/1961, đã không bị Krushchev đả kích và dọa nạt mà không đáp lại được, và phải chấp nhận trung lập hóa Lào tại Hội nghị Vienna tháng 6/1961, và Liên Sô đã không dám lên tiếng đòi chiếm Bá Linh tháng 8/1961.
 
Nếu T.T. Kennedy chịu nghe lời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì Hoa Kỳ đã không thiệt hại trên 58 ngàn quân nhân ở Việt Nam, và cuốn cờ một cách nhục nhã chưa từng thấy trong lịch sử Hoa Kỳ, thì Miền Mam Việt Nam sẽ còn tồn tại cho đến khi khối Cộng sản Đông Âu tan rã và Nga Sô sụp đổ, và biết đâu, Việt Nam đã được thống nhất trong tinh thần quốc gia và dân tộc, như Đức quốc, theo lời cựu Ngoại trưởng Kisinger đã viết trong “Year of Renewal”.
 
Kính Hương Hồn Ngô Tổng Thống, kẻ âm mưu sát hại ngài đã đền mạng. Chúng tôi nhỏ lệ thương tiếc Ngài và đồng thời cũng hãnh diện vì Việt Nam đã có một lãnh đạo tài đức song toàn, được chính giới xa gần, thù cũng như bạn, kính nể.
 
Vân Trình Nguyễn Văn Lượng

Tưởng niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Tổng thống Ngô Đình Diệm - một tấm gương sáng chói về chính nghĩa quốc gia, sự thanh liêm, lòng yêu nước thương dân mà mọi con dân nước Việt cần phải nuôi dưỡng và phát huy trong giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam hiện nay do bọn giặc nội xâm Việt gian Cộng sản gây ra. Tôn vinh tinh thần TT Ngô Đình Diệm và phục dựng lại chính thể VNCH sẽ mở ra sinh lộ tươi sáng cho dân tộc Việt Nam.

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người đã thành lập Đệ-Nhất Cộng-Hòa Việt-Nam, và là vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam. Đáp lời mời của Quốc Trưởng Bảo Đại, Người đã về chấp chánh ngày 25/6/1954, lúc tình hình đất nước vô cùng đen tối: Lãnh thổ đang trên đà qua phân, quân đội Pháp đang còn thao túng, đảng Bình Xuyên và các giáo phái đang làm loạn sứ quân… Thế nhưng, sau khi lãnh thổ bị qua phân bởi Hiệp Định Genève ngày 20/7/1954, chỉ trong có vài năm. Người đã đạt được những thành quả làm ngạc nhiên cả chính giới quốc tế; ấy là biến Miền Nam Việt Nam nhiễu nhương, lạc hậu về mọi phương diện, thành một Quốc Gia có kỷ cương, tương đối thanh bình, sung túc và tự do, dù Việt Minh vi phạm Hiệp Định Genève: 20/7/1954, tiếp tục khủng bố, phá hoại, với sự trợ giúp của khối Cộng sản.
 
Thay vì viện trợ đầy đủ cho Miền Nam, để chống lại du kích chiến của Việt cộng, “đồng minh” Hoa Kỳ không những chỉ viện trợ Miền Nam một cách cầm chừng, mà còn đề nghị đổ quân vào Miền Nam, để mở cuộc chiến tranh quy ước. Đề nghị này, là một hình thức bảo hộ, vi phạm trắng trợn chủ quyền Quốc Gia, nên Tổng Thống Ngô Đình Diệm cương quyết từ chối. Tổng thống John F. Kennedy, qua Đại sứ Henry Cabot Lodge, đã tung tiền mua chuộc bọn tướng Khố Xanh, Khố Đỏ, âm mưu lật đổ và sát hại Người cùng bào đệ là Cố vấn Ngô Đình Nhu ngày 01/11/1963. Âm mưu của Tổng thống Kennedy đã để lại một vết nhơ trong lịch sử Mỹ Quốc, vì ông là Tổng thống Thiên Chúa Giáo đầu tiên của Hoa Kỳ, đã gây ra vụ ám sát Tổng Thống Thiên Chúa Giáo đầu tiên của Việt Nam. Chưa đầy ba tuần lễ sau vụ thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Kennedy đã bị ám sát tại Dallas, Texas, ngày 22/11/1963. Nghe tin dữ, Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson, chỉ hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm treo trong văn phòng ông và nói với thượng Nghị sĩ Hubert Humphrey:
 
“Chúng ta đã nhúng tay vào vụ giết ông này. Bây giờ việc ấy đang xảy ta tại đây”. (Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm/ Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức).
 
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính, một vị quốc trưởng lương thiện, một tín đồ ngoan đạo, không phạm một lỗi lầm nào nghiêm trọng về công vụ hay về đời tư, để có thể vin vào đó, mà làm đảo chánh. Thế là người ta ngụy tạo ra và áp đặt cho Người một cái “tội”: Ấy là “tội kỳ thị và đàn áp Phật giáo”. Thật ra, chính quyền Ngô Đình Diệm đã phạm một sơ hở để cho người ta vu khống: Ấy là áp dụng không đúng lúc Nghị định Quy định treo cờ. Số là khi đi kinh lý một Khu Trù Mật, thấy Quốc Kỳ được treo thưa thớt giữa một rừng cờ Công giáo, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giận dữ nói với Bộ Trưởng Bùi Văn Lương:
 
“Ông Bộ Trưởng nhớ ban hành một quy định việc treo cờ. Cờ tôn giáo chỉ được treo trong khuôn viên nơi thờ phượng”.
 
Thay vì áp dụng nghị định ấy trước tiên cho một ngày lễ Công giáo, thì đã áp dụng vào ngày Phật đản, nên vô hình chung như có tính cách “kỳ thị” vậy. Và chính quyền Kennedy đã triệt để khai thác sự vụng về ấy bằng những hành động gian ác, chẳng hạn như CIA đã đặt bom nổ chậm tại Đài Phát Thanh Huế, để sát hại Phật tử, rồi quy tội cho chính quyền Ngô Đình Diệm, như Phòng Thông Tin Mỹ xúi dục báo giới phản đối Cơ quan an Ninh Việt Nam lục soát các chùa, để tịch thu vũ khí và câu lưu những cán bộ Cộng sản nấp bóng chùa dưới chiếc áo cà-sa, như Tòa Đại sứ Mỹ chứa chấp, bảo vệ tên sư Cộng sản nằm vùng đã sách động Phật tử xuống đường, phá rối an ninh, đó là “nhà sư” Thích Trí Quang, như Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đã ngăn chặn cuộc điều trần về kết quả điều tra của Phái đoàn Liên Hiệp Quốc bất lợi cho Hoa Kỳ, vì Phái Đoàn Điều tra đã kết luận là không có kỳ thị và đàn áp Phật giáo tại Việt Nam, một kết luận vô tư, vì Trưởng Phái đoàn là Đại sứ của Tích Lan (Sri Lanka), một nước Phật giáo.
 
Cái bất lương của chính quyền Hoa Kỳ đối với đồng minh Việt Nam ở đầu thập niên 1960, là ở chỗ đó.
 
Nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát, Mao Trạch Đông đã nói:
 
“Cả ông Hồ Chí Minh và tôi đều tin rằng, ông Ngô Đình Diệm không phải xấu như thế. Chúng tôi đều tin tưởng rằng, Hoa Kỳ còn phải duy trì ông ta cho đến nhiều năm nữa… Nói cho cùng, sau khi ông bị ám sát, sự trống rỗng lãnh đạo ở Miền Nam to lớn như giữa Trời với đất”. (Mao Trạch Đông/ The Viet Nam reader, tr.214).
 
Vì không có lãnh đạo, nên sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm nằm xuống chưa đầy hai năm, tình hình Miền Nam suy sụp tưởng chừng như sắp rơi vào tay của Việt cộng, đến độ Hoa Kỳ đã can thiệp bằng quân sự. Ngày 8/3/1965, Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ ở Đà Nẵng, mà chính phủ Phan Phuy Quát với Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Bùi Diễm vẫn “không hay biết” gì cả, và đã coi Miền Nam là thuộc địa của Hoa Kỳ, điều mà chính quyền Ngô Đình Diệm cương quyết chống đối. chính quyền Phan Huy Quát ra thông cáo ghi vắn tắt rằng: “Việc Mỹ đưa quân vào đã được sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam”. Hoa Kỳ đã lấy sức mạnh của một cường quốc, để chi phối một đồng minh nhược tiểu. Đó là một hình thức mới của đế quốc, của thực dân. Mao Trạch Đông đã tiên liệu trước sau gì rồi Mỹ cũng sa lầy ở Việt Nam, nên trong tháng 6/1965, đã nói với ký giả Edgar Snow:
 
“Người Mỹ đã không nghe lời ông Diệm”. (The Americans had not listened to Diệm). Câu này ngụ ý là Mao Trạch Đông đã mặc nhiên coi ông Diệm - ít nhất trong vấn đề Việt Nam và Đông Nam Á - có viễn kiến chính trị và khả năng lãnh đạo hơn Kennedy” (Nguyễn Văn Chức/Thế Giới Ngày Nay tr. 18). Điều này, cũng đã được tướng Thomas A. Lane nói lên:
 
“Ngô Đình Diệm quả là một vĩ nhân của thế kỷ 20. Xét về mặt khôn ngoan, đạo đức và thành công trước những khó khăn dồn dập, tài lãnh đạo và lòng yêu nước của ông đã lên đến chỗ tuyệt đỉnh. So sánh, thì thấy tài cán của các chính khách Mỹ, cả trong Hành pháp lẫn Lập pháp đều tầm thường hết” (Tiến sĩ Phạm Văn Lưu/Biến cố chính trị Việt Nam hiện đại, tr.205).
 
Cái bất tài của chính quyền Hoa Kỳ khi thi hành chính sách chống Việt cộng ở đầu thập niên 1960, là ở chỗ đó.
 
Nếu T.T. Kennedy có đức độ và khôn ngoan, có viễn kiến và tài lãnh đạo thì ông ta đã không thất bại trong vụ đổ bộ người Cuba chống Cộng lên Vịnh Con Heo ở cuối tháng 4/1961, đã không bị Krushchev đả kích và dọa nạt mà không đáp lại được, và phải chấp nhận trung lập hóa Lào tại Hội nghị Vienna tháng 6/1961, và Liên Sô đã không dám lên tiếng đòi chiếm Bá Linh tháng 8/1961.
 
Nếu T.T. Kennedy chịu nghe lời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì Hoa Kỳ đã không thiệt hại trên 58 ngàn quân nhân ở Việt Nam, và cuốn cờ một cách nhục nhã chưa từng thấy trong lịch sử Hoa Kỳ, thì Miền Mam Việt Nam sẽ còn tồn tại cho đến khi khối Cộng sản Đông Âu tan rã và Nga Sô sụp đổ, và biết đâu, Việt Nam đã được thống nhất trong tinh thần quốc gia và dân tộc, như Đức quốc, theo lời cựu Ngoại trưởng Kisinger đã viết trong “Year of Renewal”.
 
Kính Hương Hồn Ngô Tổng Thống, kẻ âm mưu sát hại ngài đã đền mạng. Chúng tôi nhỏ lệ thương tiếc Ngài và đồng thời cũng hãnh diện vì Việt Nam đã có một lãnh đạo tài đức song toàn, được chính giới xa gần, thù cũng như bạn, kính nể.
 
Vân Trình Nguyễn Văn Lượng